Ngũ uẩn – căn nghiệp của đời người

Ngũ uẩn là gì mà quan trọng đến vậy?

Buông xả ưu phiền - chấp nhặt làm gì cho thêm đau khổ!

Chấp trước – Nguyên nhân của mọi Khổ đau

Ngã mạn - Sai lầm lớn nhất của đời người

Những nguyên tắc nuôi dạy con nên Người

Trong câu mở đầu của Bát Nhã Tâm Kinh cũng nhắc đến Ngũ uẩn: “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Ngũ uẩn là gì mà quan trọng đến vậy? 

Ngũ uẩn

Ngũ uẩn theo tiếng Phạn là Pãnca-skandha (Sanskrit), Pãnca khandha (Pàli). Pãnca là năm; Khandha là nhóm, là yếu tố là tích tụ. Ngài Tam tạng Pháp sư đời nhà Đường (Trung Hoa) là Huyền Trang (595 – 664) dịch chữ Phạn sang chữ Hán là Ngũ uẩn gồm Sắc uẩn (Rùpaskandha), Thọ uẩn (Vedanàskandha), Tưởng uẩn (Samjnaskandha), Hành uẩn (Samskaraskandha) và Thức uẩn (Vijnanaskandha).

Uẩn (Skandha) là sự tập hợp, sự tích tụ, một nhóm theo từng loại với cùng những tính chất giống nhau, nên gọi là nhóm, là tổ hợp, là tụ tập, là chúng. Vì thế, Ngũ uẩn còn được gọi là năm ấm, năm chúng, năm nhóm, năm tụ. Khái quát lại thì Ngũ uẩn là năm nhóm yếu tố, năm tổ hợp biểu thị sự cấu tạo nên con người và vũ trụ.

Thức là một hợp thể của bốn uẩn kia, là nền tảng của sắc, thọ, tưởng, hành. Vì vậy đạo Phật không chấp nhận có một thức nào đó độc lập, tự chủ. Thức vô thường lưu chuyển, vô ngã và do duyên sinh.

Sắc uẩn 

Là phần hình hài vật chất, bao gồm 4 thành tố là: Địa (chất rắn - tạo thành thịt da xương cốt…); Thủy (chất lỏng - máu huyết, nước mắt…); Hỏa (chất nóng - sự ấm áp của cơ thể); Phong (chất khí - hơi thở…). Phần cơ thể vật chất của con người gồm có 4 thành tố này hợp lại mà thành, vì thế Phật giáo thường nói là “cái thân bốn đại”. Yếu tố vật chất là thân thể hay ngoài thân thể, thuộc vật chất hay năng lượng, thuộc thời gian hay không gian đều bao hàm trong sắc uẩn.

Thân thể là sắc uẩn, là một hợp thể vật chất biến động và đầy mâu thuẫn. Bản chất của sắc uẩn là vô thường, vô ngã và chuyển biến bất tận theo lý duyên sinh, thế mới nói bản chất của chúng là Không. Sự chấp thủ, tham ái thân thể hoặc bất cứ một đối tượng vật lý, sinh lý nào cũng đều mang đến khổ đau. Kinh Phật dạy rằng, ai cho rằng thân thể này là ta, tạo ra ảo tưởng của Ngã thì chắc chắn chuốc thêm phiền muộn, thất vọng và đau khổ.

Thọ uẩn

Thọ là phần cảm giác, do sự tiếp xúc của các giác quan với cảnh sinh ra. Đức Phật dạy có sáu thọ: Mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng - mềm, ý với tâm ý. Cảm giác bao gồm ba loại: Cảm giác khổ, cảm giác vui sướng và cảm giác không vui không khổ.

Cảm giác khổ là sự khó chịu khi tiếp xúc với một đối tượng không vừa ý, kéo theo sự bất mãn, muốn tránh xa... Ví như khi ta nhìn thấy một người mà lòng không ưa thích, tự ta nảy sinh cảm giác không muốn nhìn, muốn rời đi. Cảm giác vui sướng là một thứ cảm giác dễ chịu, thoải mái, vui vẻ khi tiếp xúc với một đối tượng yêu thích, vừa ý, khiến ta sung sướng, muốn lại gần... Cảm giác không khổ không vui không mang đến sự khó chịu hay dễ chịu nào.

Thọ uẩn góp phần quan trọng vào việc tạo ra ảo tưởng về cái Tôi, bởi mọi người thường nghĩ rằng, cảm giác là của Ta. Thế nhưng, nếu chúng là của Ta tại sao ta không có quyền hạn gì với chúng để lúc nào cũng được vui vẻ và hạnh phúc?

Ảo tưởng về Ngã chấp sinh ra vì ta tin rằng thân này, Thọ này là của ta. Tuy vậy, khi thật sự quán xét về chúng, ta thấy rằng ta chẳng có quyền hạn gì với chúng. Mọi việc chỉ xảy ra như thế.

Tưởng uẩn

Là nhận thức, là tư tưởng, là nhóm tri giác có khả năng nhận biết đối tượng là cái gì, là khả năng kinh nghiệm của sáu giác quan và sáu đối tượng của giác quan. Sự nhận biết đối tượng có hai loại: Nhận biết đối tượng bên ngoài như mắt thấy, tai nghe; Khả năng nhận biết đối tượng bên trong, tức là các đối tượng tâm lý như những khái niệm, hồi tưởng…

Những tri giác về các đối tượng bên ngoài, bên trong, thuộc thời gian, không gian, đơn giản hay phức tạp đều thuộc Tưởng uẩn. Tưởng bao gồm mọi nhận thức về thế giới vật lý, tâm lý. Tuy nhiên, thế giới vật lý, tâm lý ấy được ký hiệu hóa, khái niệm hóa, nên giữa tri giác và thực tại luôn có một khoảng cách. Sự có mặt của tri giác là sự có mặt của kinh nghiệm. Tri giác tùy thuộc vào những kinh nghiệm đã qua nên tri giác dễ bị đánh lừa bởi kinh nghiệm đã có trước đó.

Tri giác tồn tại có điều kiện, vì vậy chúng vô thường, do duyên sinh nên tri giác đầy hư vọng mà ta thường gọi là vọng tưởng.

Hành uẩn

Hành uẩn là phần tác ý, tạo nghiệp. Nghĩa là các hiện tượng tâm lý mang tính chất tạo tác nghiệp, có năng lực đưa đến quả báo của nghiệp, nói cách khác là tạo động lực tái sinh.

Hành uẩn có sáu loại do sự tiếp xúc giữa sáu giác quan và sáu đối tượng, tạo ra động lực dẫn dắt tâm ý theo xu hướng thiện, bất thiện. Một số tâm sở có tác động mạnh mẽ để hình thành nghiệp hay hành như: Dục, xác định, niềm tin, tinh tấn, tham lam, sân hận, ngu si, kiêu mạn, tà kiến... Chúng làm nền tảng và lực đẩy để hình thành một năng lực hành mới, dẫn dắt con người đi tới tương lai.

Hành uẩn tồn tại nhờ các điều kiện do duyên sinh nên chúng cũng vô thường và biến động bất tận.

Thức uẩn

Thức là có khả năng rõ biết, phản ánh thế giới hiện thực. Thức nhận biết sự hiện diện của đối tượng giống như tấm gương phản chiếu tất cả những hình ảnh đi ngang qua nó. Thức có sáu loại: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đức Phật dạy rằng: Thức do các duyên với điều kiện mà sinh khởi chứ không cố định. Nếu không có duyên thì không có Thức sinh khởi. Thức được gọi tên tùy thuộc vào điều kiện tương ứng.

Tóm lại, con người dưới sự phân tích năm nhóm thì thân thể thuộc một nhóm - nhóm vật lý, sinh lý; Tâm lý thì chia thành bốn nhóm: Cảm giác, tri giác, động lực hay ý chí và thức. Mỗi nhóm là một tập hợp của các yếu tố, đồng thời mỗi nhóm đều nương tựa vào nhóm kia mà tồn tại, nhóm này có trong nhóm kia và ngược lại. Tức là, trong sắc có thọ, trong thọ có sắc, nương vào nhau mà có mặt. Cảm giác khổ sở bao gồm luôn cả thân thể và tri giác, tâm tư và thức.

Đức Phật dạy rằng: “Người nào thấy rõ được Khổ cũng thấy luôn nguyên nhân của Khổ, cũng thấy luôn sự diệt Khổ và cũng thấy luôn con đường đưa đến sự diệt Khổ”.

Bám víu vào Ngũ uẩn thì sinh khổ đau

Trong Tứ diệu đế, Đức Phật đã nói về tám nỗi khổ. Trong tám nỗi khổ đó, ngoài bảy nỗi khổ gồm sinh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, nỗi khổ thứ tám là ngũ uẩn xí thạnh khổ (Trong Kinh Tương Ưng II, phẩm Chuyển pháp luân).

Tại sao Đức Phật thường nói đến Ngũ uẩn?

Ngài thuyết Ngũ uẩn là vì thương chúng sinh. Chúng sinh vì chấp ngã, sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà tham ái, chấp thủ thành ra đau khổ. Vì sao chấp thủ, vì sao tham ái? Chính cái ý niệm thân thể ta, tình cảm ta, tư tưởng ta, tâm tư ta, nhận thức của ta… hình thành cái ta ham muốn, vị kỷ. Vì chấp có cái Ta cho nên sinh tham ái. Nếu không có cái Ta thì tham ái sẽ không có mặt. Mê lầm chấp ngã sinh tham ái, ái không đạt được thành ra đau khổ. Vì chấp năm uẩn nên sinh đau khổ.

Thế mà nhân sinh lại ngắn ngủi, không may một cái sơ sẩy chân tay, rối loạn nào đó trong cơ thể cũng có thể đặt dấu chấm hết cho cuộc đời này. Có sinh thì ắt có diệt, tất cả đều vô thường. Nếu không thấm nhuần chân lý này mà cứ bám víu, muốn có sự cố định, muốn mọi thứ đều vĩnh viễn trường tồn thì còn khổ. Bởi lẽ tất cả mọi thứ những tưởng của ta sẽ mất đi, còn gì nữa đâu mà tranh giành hơn thua, được mất?

Nhưng sống trong cuộc đời này, con người không ai thoát khỏi những nỗi đau, buồn giận, những bế tắc về nội tâm, trắc trở trong cuộc sống. Con người ai mà chẳng có dục vọng nảy sinh làm cho mê mờ, đuổi theo dục vọng lại càng bị trói chặt trong cuộc sống tội lỗi, khổ đau. Do vậy, nếu không hiểu rõ Ngũ uẩn càng làm cho con người luôn khổ đau, trở thành gánh nặng cho chính mình. Chính Ngũ uẩn là gánh nặng mà kẻ gánh cái nặng ấy chính là con người. Mang cái gánh nặng lên chính là mang lòng tham ái, níu kéo, chấp thủ cái Ta. Đặt gánh nặng xuống tức là rời bỏ lòng tham, đoạn diệt khát ái một cách hoàn hảo.

Người có trí tuệ thường biết cân bằng lại đời sống nội tâm của mình, biết “đặt gánh nặng xuống” để xả bỏ những muộn phiền, chấp thủ, tham ái, tự Ta cho đời sống của Ta thêm an lạc.

Trong Kinh Tương Ưng, phẩm Gánh nặng, có những câu thơ rất hay về Ngũ uẩn rằng:

Ngũ uẩn là gánh nặng,

Kẻ gánh nặng là người.

Mang gánh nặng ấy lên

Chính là khổ ở đời.

Còn đặt gánh nặng xuống

Chính là lạc ở đời.

Đặt gánh nặng xuống xong

Không mang thêm gánh khác.

Nếu nhổ khát ái lên

Tận cùng đến gốc rễ,

Không còn đói và khát

Được giải thoát tịnh lạc.

An Nhiên H+
Mời quý vị độc giả đọc tin hàng ngày về chủ đề sức khỏe tại suckhoecong.vn trong chuyên mục Tâm thức